Tên di sản : Đình Tuân Đạo
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 430/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đình làng Tuân Đạo nằm ở trung tâm làng Tuân Đạo, trong một không gian cao ráo, thoáng đãng ngoảnh mặt về hướng Đông Nam nhìn ra phía trước có ao đình, giếng nước cổ và cây đa toả bóng xanh mát cả không gian thơ mộng. Hoà vào cảnh sắc thiên nhiên ấy là những ngôi nhà dân gian truyền thống đã tạo thêm cho vùng đất này một không gian thiêng, êm đềm và thanh bình mà những người vãng cảnh có cảm giác nơi đây như là hình ảnh thân thuộc của một làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ.
Về kiến trúc chính, đến thăm quan khu di tích theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình: Cổng - Sân - Đình.
Cổng: được kiến trúc theo kiểu hình trụ vuông với ba cửa ra phía trước, gồm một cửa lớn, hai cửa bên nhỏ. Mặt chính cổng hướng đông, nằm sát đường liên thôn, được xây bằng các chất liệu gạch, vôi vữa và cánh cổng được làm bằng sắt. Cửa lớn có kích thước chiều cao 3,3m, chiều rộng 2,15m; hai cửa bên có kích thước chiều cao 2,5m, chiều rộng 90cm.
Sân đình: có chiều rộng 14,25m, chiều dài 15,3m, được láng xi măng. Trục thần đạo vào đình được lát bằng gạch bát (25 x 25cm) theo lối chữ Công (I), hai bên trục thần đạo là sân láng xi măng. Xung quanh sân đình được xây tường gạch cắm các khung sắt để bảo vệ, trách sự xâm hại vào di tích.
Đại đình:
Về kết cấu kiến trúc: tuy đã qua nhiều lần tu sửa nhưng phần kiến trúc gỗ của ngôi đình hiện nay vẫn còn tương đối nguyên vẹn. Đình được cấu tạo bởi 6 vì kèo gỗ tạo thành 5 gian, hai chái, có kích thước chiều dài 13,25m, về kích thước chiều rộng 8,1m, mỗi vì kèo cách nhau 2,4m; hai vì kèo tạo nên gian giữa cách nhau 2,65m; Theo chiều ngang, khoảng cách từ cột cái trước đến cột cái sau là 2,4m; từ cột cái sau đến cột quân là 0,95m; từ cột quân sau đến tường hậu là 1,2m; từ cột quân trước đến tường hiên là 1,2m. Từ nền đình đến Thượng lương cao 5,7m. Hệ thống hoành tải gồm luồng và gỗ cho biết đình đã được tu sửa nhiều lần.
Với kiến trúc 4 hàng chân cột: 2 hàng cột cái (gồm 8 cột, chu vi cột cái là lm), 2 hàng cột quân 12 cột (chu vi cột quân là 87cm), chân tảng được làm bằng đá xanh, trong đó chân tảng cột cái có kích thước (50 x 50cm); chân tảng cột quân có kích thước (37 x 37cm). Liên kết giữa cột cái với cột cái là quá giang, phía trên được cấu trúc kiểu giá chiêng chồng rường gồm hệ thống câu đầu, đấu trụ và các con rường cụt. Liên kết giữa cột cái và cột quân là hệ thống kẻ chuyền. Từ cột quân đến tường trước long cốt và tường hậu được nối với nhau bằng hệ thống “Tiền kẻ hậu bẩy”, phía bên trên kẻ và bẩy là các bức cốn.
Để liên kết các vì kèo là hệ thống các xà thượng, xà hạ, hai vì 1 và 6 cách tường đốc 50cm để tránh bị thấm tường làm hỏng, vì kèo này được cấu tạo kiểu giá chiêng kẻ chuyền, ở giữa được bịt kín bằng bức ván mê, ở giữa ván mê chạm khắc chữ Thọ.
Nền nhà lát bằng gạch bát (25 x 25cm) theo lối chữ công (I).
Đình được mở ba cửa ra vào; cửa chính lớn hơn hai cửa bên, tạo cho ngôi đình sáng, thoáng mát và thuận tiện mỗi khi tổ chức cúng tế, hội họp và sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Cửa lớn có kích thước chiều cao 2,15m; chiều rộng 1,79m, hai cửa bên, mỗi cửa có kích thước chiều cao 2,15m; chiều rộng 1,2m, cánh cửa được làm theo kiểu panô.
Lần tôn tạo mới nhất vào năm 2011, đình được mở thêm một cửa ở gian 1 (phía Bắc), có kích thước chiều cao 2,1m, chiều rộng 75cm và ở gian số 5 (phía Nam) thì mở thêm một cửa sổ.
Ở phía ngoài, mái được lợp bằng ngói mũi, bờ dải, bờ nóc, đường gờ chỉ được đắp xi măng để tránh mưa dột vào đình, hai bên bờ nóc, mỗi bên đắp một trụ vuông theo kiểu giả tam sơn.
Nghệ thuật trang trí: chủ yếu trên các bức cốn. Đề tài là hoa văn hình dây cúc leo, ở giữa bức cốn được chạm khắc các con vật theo cụm đề tài “Tứ linh”, phía giáp với cột được chạm gờ nổi hình vuông, bên trong hình vuông chạm khắc chiếc đỉnh hương kiểu đầu rồng.
Bài trí đồ thờ tại di tích:
Tại gian giữa của đình được treo một ban thờ bằng gỗ có chiều dài 70cm; rộng 50cm. Bên trên có một bát hương với chất liệu bằng gốm sứ mới, nền trắng, men xanh có rồng chồng nhật nguyệt.
Kiến trúc phụ:
Trong khuôn viên của đình còn có ao đình, giếng nước cổ và cây đa (đây thuộc khu vực 2 của đình). Giếng nước có đường kính 2,3m, cao 1,1m, được xây dựng bằng gạch và vôi vữa. Xưa kia, giếng và ao đình là nơi cung cấp nguồn nước ăn uống, sinh hoạt cho cả làng, vì thế nó cũng là bằng chứng ghi lại những nét sinh hoạt của cuộc sống cộng đồng làng Tuân Đạo, đồng thời cũng góp phần mang lại vẻ đẹp thanh bình cho làng quê xứ sở với hình ảnh thân thuộc “Cây đa, giếng nước, sân đình”.
Tóm lại, đình Tuân Đạo là ngôi đình còn tương đối nguyên vẹn, cấu kiện kiến trúc của tòa Đại đình được làm bằng gỗ mang đặc điểm phong cách thời Nguyễn. Nghệ thuật trang trí còn lưu giữ được những bức cốn chạm khắc đẹp theo cụm đề tài “Tứ linh” mang giá trị nghệ thuật cao
Toàn bộ công trình đình nhìn về hướng đông, phía trước là ao đình - nơi có nguồn nước, nơi khởi thuỷ của cuộc sống con người, nơi phát sinh ra sự sống, với mong muốn cuộc sống phồn thịnh, no đủ.